Nội dung bài viết:
Dầu cá Omega 3 là một trong những loại thực phẩm chức năng rất cần thiết mà bạn nên bổ sung cho cơ thể bởi cơ thể chúng ta không thể tự tổng hợp và tạo ra dầu cá Omega 3 được. Tuy nhiên, việc bổ sung Omega-3 cần phải hợp lý để đạt hiệu quả tốt, tránh tác dụng phụ của Omega-3.
Vậy dầu cá Omega 3 trong thai kỳ bổ sung như thế nào là đúng cách? Cùng Dược sĩ Đạt tìm hiểu rõ hơn qua bài viết này nhé
Mọi người có thể tham khảo thêm: về viên uống dầu nhuyễn thễ Omega-3 Krill (Tại đây)
1. DẦU CÁ OMEGA 3 TRONG THAI KỲ QUAN TRỌNG THẾ NÀO?
Việc người mẹ ăn cá và các chất bổ sung axit béo omega-3 từ biển, chẳng hạn như este etyl axit omega-3 (dầu cá), là một lĩnh vực đang được nghiên cứu tích cực vì những tác động có lợi tiềm ẩn đối với thai kỳ và kết quả của con cái. Chủ đề này sẽ thảo luận về những lợi ích tiềm năng này cũng như những rủi ro khi mẹ ăn cá và dầu cá trong thời kỳ mang thai.
Đã có các nghiên cứu chỉ ra rằng việc bổ sung Omega-3 là điều cần thiết và có lợi cho phụ nữ đang trong thai kỳ.
Hai loại axit béo không bão hòa đa (PUFA) chính là axit béo omega-3 (còn gọi là n-3) và omega-6 (n-6), dựa trên vị trí của liên kết đôi đầu tiên trong chuỗi axit béo. Ba loại omega-3 chính trong chế độ ăn kiêng là axit eicosapentaenoic (EPA), axit docosahexaenoic (DHA) và axit alpha-linolenic (ALA). EPA và DHA là các PUFA omega-3 chuỗi dài có trong cá, động vật có vỏ và (với số lượng thấp hơn nhiều) một số thực phẩm động vật khác.
Chúng là những thành phần chính của chất bổ sung dầu cá. ALA là một PUFA omega-3 chuỗi trung gian có trong một số loại thực vật và dầu của chúng, chẳng hạn như hạt lanh và quả óc chó. Khi đề cập đến EPA và DHA, các thuật ngữ phổ biến bao gồm “axit béo omega-3 chuỗi dài”, “axit béo omega-3 có nguồn gốc từ hải sản” và “axit béo omega-3 từ biển”.
Axit béo omega-3 từ biển có nhiều tác dụng sinh học, bao gồm các tác dụng cụ thể liên quan đến thai kỳ. DHA và EPA rất quan trọng vì chúng là thành phần của phospholipid tạo nên cấu trúc của màng tế bào (đặc biệt là võng mạc và não).
Ngoài ra, nồng độ cao của EPA và DHA giúp cân bằng eicosanoid hướng tới hoạt động ít gây viêm hơn. Mặc dù cơ thể có thể chuyển đổi ALA thành DHA và EPA có hoạt tính sinh học cao hơn nhưng tỷ lệ chuyển đổi rất thấp (<1% đối với DHA, <10% đối với EPA). Do đó, tiêu thụ axit béo omega-3 từ biển là phương tiện hiệu quả nhất để các cá nhân tăng mức DHA và EPA.
Thai nhi phụ thuộc vào sự vận chuyển DHA qua nhau thai để phát triển thị giác và nhận thức tối ưu. EPA dường như tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và hấp thu DHA trong các tế bào của thai nhi. DHA được ưu tiên tích hợp vào não bộ đang phát triển nhanh chóng của thai nhi trong ba tháng cuối của thai kỳ, tập trung ở chất xám và màng võng mạc.
Phân tích khám nghiệm tử thi ước tính rằng thai nhi tích lũy được 50 đến 60 mg/ngày DHA trong tam cá nguyệt thứ ba . Sự tích lũy DHA nhanh chóng vào hệ thống thần kinh trung ương tiếp tục trong suốt 24 tháng đầu đời, với sự tích lũy liên tục trong suốt thời thơ ấu.
2. LỢI ÍCH MÀ DẦU CÁ OMEGA 3 TRONG THAI KỲ MANG LẠI
2.1 Dầu cá Omega 3 ảnh hưởng đến sự phát triển thần kinh của con cái
Trong hầu hết các nghiên cứu thuần tập tiền cứu và hồi cứu, việc người mẹ ăn nhiều cá hơn trong thời kỳ mang thai có liên quan đến những cải thiện khiêm tốn trong sự phát triển thần kinh của con cái.
Tuy nhiên, một phân tích tổng hợp Cochrane năm 2018 về các thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh can thiệp axit béo omega-3 biển (thực phẩm, chất bổ sung) với giả dược hoặc không can thiệp axit béo omega-3 biển trong thai kỳ cho thấy sự khác biệt không đáng kể giữa các nhóm đối với sự phát triển của trẻ nhỏ (nhận thức, sự chú ý, hành vi, thị giác, ngôn ngữ, thính giác, vận động).
Những phát hiện từ các nghiên cứu quan sát không nhất thiết trái ngược với những phát hiện từ phân tích tổng hợp vì chỉ có ba thử nghiệm trong phân tích tổng hợp liên quan đến việc ăn cá thay vì bổ sung axit béo omega-3 từ biển và những thử nghiệm này không đánh giá kết quả phát triển thần kinh.
Hơn nữa, các thử nghiệm bổ sung, đã đánh giá kết quả này, có chất lượng rất thấp hoặc thấp, do đó khả năng có lợi ích không thể bị loại trừ một cách chắc chắn.
Ngoài ra, thói quen tiêu thụ cá có thể nhất quán trước và trong khi mang thai, trong khi các thử nghiệm bổ sung thường bắt đầu điều trị trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba của thai kỳ và do đó không thể đánh giá tác động của việc tiếp xúc trước khi thụ thai hoặc trong tam cá nguyệt thứ nhất.
2.2 Dầu cá Omega 3 trong thai kỳ hạn chế tình trạng sinh non
Axit béo omega-3 trong biển dường như làm giảm nguy cơ sinh non và kéo dài thời gian mang thai. Trong phân tích tổng hợp Cochrane năm 2018 về các thử nghiệm ngẫu nhiên đã thảo luận ở trên, so với giả dược hoặc không can thiệp axit béo omega-3 biển, việc bổ sung axit béo omega-3 biển khi mang thai mang lại kết quả như sau:
- Giảm sinh non <37 tuần, với xu hướng giảm tử vong chu sinh tương ứng.
- Giảm cân nặng khi sinh thấp.
- Tăng tuổi thai trung bình thêm 1,67 ngày.
- Tăng tuổi thai sau hơn 42 tuần.
2.3 Dầu cá Omega 3 trong thai kỳ giảm dị ứng và bệnh dị ứng
Việc bổ sung axit béo omega-3 từ biển bắt đầu trong thời kỳ mang thai ít nhất có mối liên hệ yếu với việc giảm kết quả dị ứng. Trong một phân tích tổng hợp năm 2019 về các thử nghiệm ngẫu nhiên (10 thử nghiệm, trên 3600 trẻ em), các ước tính tổng hợp cho thấy giảm nhạy cảm với trứng ở trẻ em và nhạy cảm với đậu phộng.
Một trong những thử nghiệm lớn hơn được đưa vào phân tích tổng hợp là thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát giả dược mù đôi về việc bổ sung axit béo omega-3 biển (dầu cá) liều cao (2,4g/ngày) trong tam cá nguyệt thứ ba.
rong thử nghiệm này, biện pháp can thiệp giúp giảm tuyệt đối 7% nguy cơ thở khò khè hoặc hen suyễn dai dẳng ở trẻ được theo dõi từ ba đến năm tuổi, cũng như giảm nhiễm trùng đường hô hấp dưới, nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ lên cơn hen suyễn, bệnh chàm hoặc mẫn cảm dị ứng giữa các nhóm.
2.4 Dầu cá Omega 3 có thể giảm tiền sản giật
Trong tổng quan hệ thống Cochrane năm 2018 và phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên đã thảo luận ở trên, so với giả dược hoặc không can thiệp bằng axit béo omega-3 biển, việc bổ sung axit béo omega-3 biển (thực phẩm, chất bổ sung) trong thai kỳ cho thấy một xu hướng giảm tiền sản giật.
3. BỔ SUNG DẦU CÁ OMEGA 3 TRONG THỜI KỲ MANG THAI THẾ NÀO?
Tác dụng có hại chưa được báo cáo từ việc bổ sung dầu cá trong thời kỳ mang thai. Chảy máu tạng là biến chứng tiềm tàng nghiêm trọng nhất do dùng liều cao, nhưng chảy máu quá nhiều sau khi sinh chưa được ghi nhận. Các vấn đề an toàn chung (ví dụ: chảy máu, chất gây ô nhiễm, ung thư) sẽ được thảo luận chi tiết hơn một cách riêng biệt.
Tuy nhiên, chất bổ sung có thể gây ra tác dụng phụ khó chịu. Phổ biến nhất là rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, xảy ra ở khoảng 4% người dùng với liều dưới 3 gam/ngày và khoảng 20% người dùng với liều ≥4 gam/ngày trong một phân tích gộp. Bổ sung dầu cá cũng có thể gây ra “vị tanh” sau khi bị ợ hơi, hơi thở có mùi, ợ nóng và mồ hôi có mùi.
Hy vọng rằng bài viết này đã cung cấp cho mọi người những thông tin hữu ích về sức khỏe . Hãy bổ sung dầu nhuyễn thể Omega-3 Krill vào chế độ dinh dưỡng hàng ngày của bạn để có một cuộc sống khỏe mạnh hơn nhé
Mọi người có thể tham khảo thêm: về viên uống dầu nhuyễn thễ Omega-3 Krill (Tại đây)
Liên hệ với Dược Sĩ Đạt:
- Facebook: Dược sĩ Đạt
- Youtube: Dược sĩ Đạt Official
- TikTok: Dược sĩ Đạt Official
- Email hợp tác: duocsinguyenvandat@gmail.com